Cây ngô là cây lương thực quan trọng ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ cũng như khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam. Với điều kiện thời tiết, khí hậu, đất nước đã giúp cho cây được sinh trưởng phát triển tốt nhất. Cách chăm sóc cây ngô chuẩn kỹ thuật từ A-Z sau đây sẽ cho bà con có vụ mùa bội thu tham khảo ngay
1. Điều tra hệ sinh thái ruộng ngô (bắp) ở các giai đoạn sinh trưởng và phát triển
1.1. Giai đoạn ngô 3 – 4 lá
Hạt ngô sau gieo từ 5 – 8 ngày sẽ tiến hành nảy mầm mọc thành cây con mới, ở thời kỳ nảy mầm ngô có đặc điểm là sử dụng chất dinh dưỡng dự trữ trong hạt là chủ yếu nhờ quá trình hút nước và các quá trình oxi hóa các chất bên trong hạt diễn ra mạnh mẽ qua hàng loạt các phản ứng sinh hóa phức tạp để biến các chất phức tạp thành các chất hòa tan nhờ hoạt động của các men với điều kiện có đủ độ ẩm, nhiệt độ, không khí phù hợp. Sau khi ngô nảy mầm sẽ sinh trưởng thành cây con mới, đến đây sẽ có một sự thay đổi quan trọng khi cây ngừng phụ thuộc vào lượng dinh dưỡng dự trữ trong hạt sang trạng thái hút dinh của đất và cơ quan quang hợp của bộ lá bắt đầu hoạt động. Ở giai đoạn này các bộ phận dưới mặt đất (các lớp rễ đốt) phát triển mạnh và giữ vai trò chính trong việc hút nước và dinh dưỡng của cây, thân lá trên mặt đất phát triển chậm, thân chính cao 1 – 2 cm so với mặt đất. Đây là giai đoạn hình thành đốt vì đỉnh sinh trưởng phân hóa để hình thành đốt thân, bông cờ, bắp và hình thành các lớp rễ đốt. Nói chung ở giai đoạn này cây ngô không cần nhiều dinh dưỡng chủ yếu cần đất thoáng khí để đảm bảo cung cấp đủ oxi cho bộ rễ phát triển. Để tạo điều kiện cho cây sinh trưởng thuận lợi thì khi cây ngô có lá thứ 4 bắt đầu xới xáo, bón phân và kết hợp chăm sóc đợt 1.
Cây ngô giai đoạn 3 – 4 lá
1.2. Giai đoạn ngô 7 – 8 lá
Ở giai đoạn này cây ngô sinh trưởng rất mạnh về tất cả các bộ phận rễ, thân, lá. Chiều cao cây có thể tăng từ 8 – 10 cm /ngày nên còn được gọi là thời kỳ lớn vọt của cây ngô. Hệ thống rễ cũng như cơ quan quang hợp của cây được hoàn thiện dần đồng thời cũng là thời kỳ phân hóa và quyết định số lượng hoa đực hữu hiệu, đọ lớn của bắp, số lượng hoa cái. Khi cây được 15 lá trở đi tốc độ ra lá nhanh hơn, khoảng từ 1 – 2 ngày lại ra 1 lá mới. Các chồi bắp phía trên phát triển vượt các chồi bắp phía dưới. Đây là thời kỳ cây ngô cần nhiều nước và chất dinh dưỡng nên nếu gặp hạn sẽ làm cho cây bị thấp, số lượng hoa hình thành ít, chất lượng kém. Do tốc độ sinh trưởng nhanh nên nhu cầu dinh dưỡng của cây ngô ở thời kỳ này là rất lớn và đây cũng là thời kỳ đạt hiệu suất cao về phân bón. Nếu thiếu dinh dưỡng trong giai đoạn này sẽ làm giảm năng suất rõ rệt. Do vậy ở giai đoạn này tiến hành chăm sóc và bón phân cho ngô đợt 2 bằng cách bón nhiều phân vô cơ kết hợp với tưới nước duy trì độ ẩm khoảng 80%.
1.3. Giai đoạn ngô xoáy nõn
Ở giai đoạn này cây ngô ngừng sinh trưởng thân lá để chuẩn bị trổ cờ, nhưng vẫn tiếp tục hút các chất dinh dưỡng từ đất. Các chất dinh dưỡng và các chất hữu cơ bắt đầu tập trung mạnh vào các cơ quan sinh sản cho nên ở thời kỳ này ngoài việc đảm bảo dinh dưỡng đầy đủ còn cần chú ý duy trì độ ẩm 70 – 75%.
Tham khảo thêm:
- Hướng dẫn cách bón phân cho hoa hồng ra sai bông, to và đẹp
- Kỹ thuật và cách bón phân cho lúa dành cho bà con nông dân
- Cách bón phân thúc cho cây ăn quả sao cho hiệu quả nhất
1.4. Giai đoạn ngô trỗ cờ, tung phấn, phun râu, thụ tinh
Giai đoạn này bắt đầu khi nhánh cuối cùng của bông cờ xuất hiện rõ và bắp chưa phun râu. ở ngô thời điểm tung phấn và phun râu không diễn ra đồng thời cùng 1 lúc mà thường chênh lệch nhau vài ngày, nếu điều kiện thời tiết thuận lợi, dinh dưỡng và đặc biệt là nước đầy đủ thì thời gian chênh lệch càng ngắn, còn nếu điều kiện ngoại cảnh bất thuận, dinh dưỡng không đầy đủ và nhất là thiếu nước trước trổ cờ khoảng 10 – 15 ngày thì thời điểm tung phấn và phun râu chênh lệch càng lớn. Nói chung ở thời kỳ này cây ngô chủ yếu cần đủ nước, dinh dưỡng không cần nhiều, giai đoạn này thường kéo dài trung bình khoảng từ 10 – 15 ngày nhưng lại là giai đoạn ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất ngô vì nó quyết định đến số hạt/bắp. Nếu quá trình thụ phấn, thụ tinh diễn ra thuận lợi số hạt/bắp lớn còn nếu quá trình trổ cờ, phun râu bất thuận (nghẹn cờ, râu hoặc thiếu nước hạt phấn mất sức sống…) ảnh hưởng đến thụ phấn, thụ tinh thì sẽ làm giảm số hạt/bắp (gây ra hiện tượng khuyết hàng, khuyết hạt).
1.5. Giai đoạn ngô thâm râu
Khi râu ngô bắt đầu chuyển dần từ trạng thái tươi, có mầu nâu đỏ sang héo dần và thâm đi là dấu hiệu của quá trình thụ phấn thụ tinh đã kết thúc và cây ngô bắt đầu chuyển sang giai đoạn chín hay còn gọi là giai đoạn vận chuyển các chất dinh dưỡng dự trữ từ thân lá về hạt do đó trạng thái của hạt có sự thay đổi: sau phun râu khoảng 18 – 20 ngày hạt mềm, các chất dinh dưỡng dự trữ trong hạt ở trạng thái lỏng, màu trẳng như sữa, râu bắp đã khô, hàm lượng nước chiếm phần lớn khoảng 80% khối lượng hạt (nên còn gọi là thời kỳ chín sữa). Đây là hời kỳ vận chuyển dinh dưỡng từ các cơ quan thân lá về hạt mạnh mẽ nhất nên việc đảm bảo đủ nước và dinh dưỡng ở thời kỳ đóng vai trò rất quan trọng. Đủ nước quá trình vận chuyển dinh dưỡng về hạt thuận lợi, đủ dinh dưỡng để đảm bảo cho quá trình quang hợp tổng hợp chất hữu cơ mới vẫn diễn ra bình thường để có nguồn dinh dưỡng vận chuyển về hạt và nhất là yếu tố kali còn có tác dụng thúc đẩy quá trình vận chuyển dinh dưỡng từ cơ quan dinh dưỡng về cơ quan dự trữ càng thuận lợi hơn.
Sau phun râu khoảng 24 – 28 ngày hạt đã hình thành xong chất lỏng trong hạt đặc lại dạng hồ, hạt dần cứng lại, phôi tăng nhanh về kích thước, hàm lượng nước trong hạt bắt đầu giảm còn khoảng 70% (còn gọi là thời kỳ chín sáp).
Sau phun râu khoảng 55 – 60 ngày hạt đã chín sinh lý hoàn toàn, lớp sẹo đen ở chân hạt đã hình thành, trọng lượng hạt đạt mức tối đa, báo hiệu kết thúc sự phát triển của hạt, trọng lượng nước trong hạt giảm còn 30 – 35%, lá ngô và lá bi chuyển vàng.
2. Tính lượng phân cần thiết trong từng giai đoạn sinh trưởng của cây ngô (bắp)
Để tính toán và quyết định bón phân cho ngô với lượng là bao nhiêu, loại phân gì cần dựa vào các căn cứ sau:
– Căn cứ vào nhu cầu và đặc điểm hút chất dinh dưỡng của cây ngô, đây là căn cứ quan trọng nhất, phản ánh được lượng dinh dưỡng cần bổ sung cho đất.
– Căn cứ vào đặc điểm, tính chất của đất: đối với đất bạc màu nghèo dinh dưỡng, khả năng giữ dinh dưỡng kém nên bón nhiều phân hữu cơ để cải tạo đất và bón làm nhiều lần, đối với đất phù sa khả năng giữ dinh dưỡng trong đất tốt hơn và thành phần dinh dưỡng cũng phong phú nên có thể bón với lượng ít hơn và bón ít lần.
Ví dụ: đối với đất bãi phù sa Sông Hồng được bồi hằng năm, lượng dinh
dưỡng nhiều, hàm lượng kali trong đất cao kho trồng ngô không cần bón thêm kali hoặc chỉ cần bón với lượng thấp từ 30 – 60kg K2O/ha, ngược lại trên các chân đất bạc màu của Bắc Giang, Phú Thọ do quá trình canh tác và rửa trôi nên hàm lượng kali trong đất thấp nên khi bón cần tăng cường bón kali, có thể bón với lượng từ 90 – 120 K2O/ha.
– Căn cứ vào đặc điểm của giống: các giống ngô lai năng suất cao chịu thâm canh thì nhu cầu dinh dưỡng cao hơn các giống ngô thường.
Ví dụ: các giống ngô có ưu thế lai cao như P11, P9901, Bioseed 9670, 9681, DK888, LVN – 10…cần bón phân tăng gấp 1,2 – 1,5 lần so với các giống thụ phấn tự do(OPV) và giống địa phương.
Lượng phân bón cho ngô đối với các nhóm giống và các loại đất có thể tham khảo qua bảng sau:
Loại đất | Nhóm đất | Lượng phân bón cho 1 ha | |||||||
Giống chín sớm | Giống chín trung bình và muộn | ||||||||
Phân chuồng (tấn) | N (kg) | P2O5 (kg) | K2O (kg) | Phân chuồng (tấn) | N (kg) | P2O5 (kg) | K2O (kg) | ||
Đất phù sa | Sông Hồng được bồi hằng năm | – | 120 | 60 | 30 | – | 150 | 60 | 60 |
Các sông khác được bồi hằng năm | – | 120 | 60 | 60 | – | 150 | 60 | 60 | |
Không được bồi hằng năm | 5 – 10 | 120 | 60 | 60 | 5 – 10 | 150 | 60 | 60 | |
Đất nhẹ | Bạc màu, xám bạc màu, cát ven biển | 8 – 10 | 120 | 60 | 90 | 8 – 10 | 150 | 60 | 90 |
Đất đỏ đồi núi | Phát triển trên đất mẹ Bazan | – | 120 | 60 | 60 | – | 150 | 60 | 60 |
Phát triển trên các đất mẹ khác | 5 – 10 | 120 | 60 | 60 | 5 – 10 | 150 | 60 | 60 |
– Căn cứ vào đặc điểm của loại phân bón: phân vô cơ, hữu cơ, khả năng dễ tiêu của phân, kỹ thuật… nếu phân hữu cơ cần bón với lượng lớn do hàm lượng các chất dinh dưỡng trong phân hữu cơ thấp, còn nếu bón phân vô cơ thì có thể bón với lượng ít hơn do hàm lượng dinh dưỡng trong phân vô cơ cao, bón phân NPK cân đối kết hợp với phân hữu cơ là biện pháp hữu hiệu làm tăng năng suất và phẩm chất ngô, giúp cải tạo đất, góp phần chống xói mòn và bảo vệ môi trường sinh thái. Theo FAO (1993) sau hơn 30 năm nghiên cứu và thực nghiệm nếu chỉ sử dụng phân chuồng và tàn dư thực vật để trả lại cho đất trồng mà không sử dụng phân hóa học (NPK) thì năng suất cây trồng giảm ít nhất là 30%, cân bằng dinh dưỡng bị phá vỡ, đất bị bạc màu và nạn đói đe dọa, sẽ gây hậu quả nghiêm trọng về môi trường sinh thái. Bón phân vô cơ kết hợp phân hữu cơ cho ngô đã làm tăng năng suất ngô và giúp cải thiện độ phì trong đất, theo Bùi Đình Dinh (1988, 1994) để đảm bảo cho cây trồng có năng suất cao, ổn định, bón phân hữu cơ chiếm 25% tổng số dinh dưỡng, còn 75% bón phân hóa học.
– Căn cứ vào chế độ luân canh, xen canh: nếu trồng ngô trong cơ cấu luân canh cần tìm hiểu mức bón phân của cây trồng trước để định ra chế độ bón phân cho cây ngô. Khi trồng ngô thuần cần bón phân ở mức độ cao nhưng khi trồng xen cần tính toán lượng phân cần bón cho phù hợp với cây ngô.
Ví dụ: Khi trồng ngô trong công thức luân canh là lúa – ngô thì vụ trồng ngô có thể bón nhiều phân nếu vụ trước thu hoạch cả rơm rạ, nhưng nếu vụ trước chỉ cắt bông còn rơm rạ để lại trên đồng ruộng thì vụ sau trồng ngô có thể bón ít kali hơn vì trong rơm rạ hàm lượng kali tương đối cao. Hoặc nếu công thức xen canh là ngô – lạc thì có thể bón ít đạm hơn so với trồng thuần ngô vì lạc là cây họ đậu có khả năng cố định đạm cung cấp 1 phần dinh dưỡng đạm cho ngô.
Cây ngô trồng xen
– Căn cứ vào điều kiện khí hậu, thời tiết: trong điều kiện vụ đông xuân nhiệt độ thấp cần tăng cường bón lót, bón sớm, và có thể tăng lượng bón vì nhiệt độ thấp khả năng phân giải và hòa tan của phân trong đất chậm. Vụ hè thu nhiệt độ cao chủ yếu bón thúc, chia làm nhiều lần bón chú ý thời kỳ cuối.
– Căn cứ vào đặc điểm của giống như giống dài ngày nhu cầu dinh dưỡng cao hơn giống ngắn ngày, giống ngô thuần nhu cầu thấp hơn so với các giống ngô lai, các giai đoạn sinh trưởng khác nhau nhu cầu dinh dưỡng của cây cũng khác nhau: thời kỳ cây con nhu cầu dinh dưỡng thấp, thời kỳ sinh trưởng mạnh nhu cầu dinh dưỡng cao…Các giống có thời gian sinh trưởng dài nhu cầu dinh dưỡng gấp 1,2 lần so với các giống có thời gian sinh trưởng ngắn.
Hiệu quả của phân bón chỉ có thể phát huy đầy đủ khi có chế độ bón phân hợp lý, bón cân đối giữa các nguyên tố. Bón phân cho ngô để đạt hiệu quả kinh tế cao phải căn cứ vào đặc tính của loại giống ngô, yêu cầu sinh lý của cây ngô qua các thời kỳ sinh trưởng. Tình hình sinh trưởng của cây ngô trên ruộng, tính chất đất, đặc điểm loại phân bón, kỹ thuật trồng trọt và điều kiện khí hậu thời tiết.
2.1. Phân đạm (dinh dưỡng đạm) đối với cây ngô (bắp)
Đạm là thành phần dinh dưỡng quan trọng không chỉ riêng với cây ngô bởi N trong đạm tham gia vào thành phần của protein, acid amin, diệp lục, enzim…đây là những chất quan trọng bậc nhất trong việc kiến tạo vật chất và điều tiết mọi hoạt động sống của cây trồng. bởi vậy khi đủ đạm cây sinh trưởng tốt tạo ra năng suất chất xanh và năng suất hạt cao. Khi thiếu đạm cây sinh trưởng kém, vàng lá, còi cọc, năng suất chất xanh thấp, năng suất hạt giảm, nếu thiếu đạm kéo dài có thể không cho thu hoạch, do đó đạm đóng vai trò quyết định đối với năng suất cây trồng.
Biểu hiện của cây ngô khi thiếu đạm
Theo kết quả nghiên cứu của viện ATLANTA của Mỹ trên 1 giống ngô có thời gian sinh trưởng 125 ngày cho thấy nhu cầu hút đạm của cây ngô có sự khác nhau ở các thời gian sinh trưởng khác nhau: 25 ngày đầu khi cây còn nhỏ nhu cầu hút đạm của cây ngô chỉ chiếm 7,8% nhu cầu đạm của cả chu kỳ sinh trưởng. 25 ngày tiếp theo nhu cầu đạm của cây ngô tăng lên 35% do đây là thời kỳ cây ngô sinh trưởng thân lá và hình thành các cơ quan sinh sản khá mạnh, hoàn chỉnh bộ rễ đốt. 25 ngày tiếp theo nhu cầu đạm của cây ngô là 28,4% tương ứng với thời kỳ cây ngô cần đạm để hoàn thiện các cơ quan sinh sản và thụ phấn, thụ tinh. 25 ngày tiếp theo cây ngô cần 20% tổng lượng đạm của cả chu kì sinh trưởng tương ứng với thời kỳ cây ngô tích lũy đạm vào cơ quan dự trữ là hạt và đến 25 ngày cuối cây ngô chỉ sử dụng 6% tổng lượng đạm của cả chu kỳ sinh trưởng tương ứng với thời kỳ chín sáp và chín hoàn toàn của cây cây ngô.
Tuy nhiên, tùy theo giống và điều kiện thâm canh, đất đai… có thể bón đạm với lượng từ 80 – 150 kgN/ha.
Khi sử dụng phân đạm bón cho ngô cần chú ý:
Ngô là cây sinh trưởng mạnh, nhanh nên nhu cầu về đạm của cây ngô là tương đối lớn, nhất là giai đoạn đầu để mở rộng diện tích quang hợp, khi cây chuyển sang thời kỳ chín thì nhu cầu đạm giảm đi cho nên việc bón đạm quá tay ở giai đoạn đầu ít nguy hiểm hơn giai đoạn sau.
Khi bón đạm cần căn cứ vào khả năng giữ đạm và cung cấp đạm của đất, những chỉ tiêu giúp ta phán đoán được khả năng đó là dựa vào một số chỉ tiêu phân tích và kinh nghiệm của địa phương. Ngoài ra cũng cần phải quan tâm đến tính chất của đất. Nếu đất có thành phần cơ giới nặng như: đất thịt nặng, đất có tỷ lệ sét cao… khả năng trao đổi ion kém nên có thể chọn dạng phân amon. Với đất thoáng khí như: đất cát, thịt nhẹ… nếu bón phân amon thì dạng đạm này dễ chuyển thành đạm nitrat, đây là dạng đạm có khả năng hấp thụ nhỏ, dễ bị rửa trôi vì vậy không nên bón tập trung mà phải chia ra làm nhiều lần bón.
Khi sử dụng đạm cần quan tâm tới các loại ion đi kèm trong thành phần của phân đạm để đảm bảo cung cấp thêm được các yếu tố phân vi lượng cho ngô.
Hiện nay phân đạm phần lớn là ure. Khi bón phân ure cần chú ý: nếu độ ẩm đất cao cần lấp đất để giữ phân, nếu đất khô sau khi bón phải tưới nước để đất giữ phân và cây dễ hấp thụ, tốt hơn nâng cao hiệu quả của phân bón. Nhiều trường hợp bón ure làm cây trồng đồng hóa canxi và magie tốt hơn. Do vậy ure là loại phânthích hợp cho tất cả các loại đất kể cả đất chua, đất bạc mầu rửa trôi mạnh canxi và magie. Ure có thể phun lên lá tốt hơn các loại phân đạm khác, khi cây còn nhỏ thì dụng nồng độ thấp, khi cây trưởng thành thì dùng nồng độ cao hơn.
Khi sử dụng phân ure cần chú ý đến hàm lượng biure vì biure là chất độc cho cây trồng, nó ức chế quá trình hô hấp và quang hợp của cây, hạn chế tỷ lệ nảy mầm của hạt giống. Hàm lượng biure cho phép đối với cây ngô là 1 – 2% so với ure.
2.2. Phân kali (dinh dưỡng kali) đối với cây ngô
Đối với ngô kali được xem là yếu tố dinh dưỡng quan trọng thứ 2 sau đạm Kali cần thiết với sự hoạt động của keo nguyên sinh chất kìm hãm sự thoát hơi nước, giảm thiệt hại do mô sương giá và nhiệt độ thấp, nâng cao khả năng chống chịu sâu bệnh, xúc tiến quá trình quang hợp, vận chuyển các sản phẩm quang hợp về hạt, thúc đẩy việc hút các yếu tố dinh dưỡng khác như N, P…thúc đẩy quá trình sống của cây. Khi thiếu kali bắp sẽ nhỏ, mép lá ban đầu bị vàng, sau đó lá có mầu sáng, mềm đi, phiến lá không trải ra một cách bình thường mà uốn cong như gợn sóng.
Một số biểu hiện của cây ngô khi thiếu kali
Đặc điểm dinh dưỡng của cây ngô với kali như sau: ngô hút nhiều kali vào thời kỳ giữa, 25 ngày đầu cây hút khoảng 9%, 25 ngày tiếp theo cây hút khoảng 43%, thời kỳ phun râu cây hút khoảng 30%, thời kỳ tạo hạt cây hút khoảng 15%, thời kỳ chín cây hút 15%. Như vậy, thời kỳ lớn vọt đến chín sữa là thời kỳ cây cần nhiều kali nhất.
Để tăng hiệu quả bón phân kali cho ngô cần chú ý đến một số đặc điểm sau: Tất cả các loại phân kali đều tan trong nước, khi bón vào trong đất kali và các ion có mặt khác ở trong phân sẽ một phần được hấp thụ vào keo đất, một phần sẽ đẩy các cation ra ngoài dung dịch đất làm cho đất dễ bị chua. Do vậy khi bón kali liên tục, nhất là trên những chân đất thâm canh ngô thì cần phải bón thêm vôi. Nhất là trên những chân đất chua, kali có thể đẩy các ion Al3+, H+ ra ngoài dung dịch đất làm cho pH đất giảm đột ngột. Do đó, ảnh hưởng trực tiếp đến sự sinh trưởng của cây, có thể xảy ra hiện tượng làm mất sức nảy mầm của hạt giống. Cho nên kali chỉ nên sử dụng bón thúc cho ngô, ít sử dụng bón lót, nếu bón lót kali cho ngô trên đất chua cần bón vôi trước khi gieo hạt.
2.3. Phân lân (dinh dưỡng lân) đối với cây ngô
Trong phân lân có P là thành phần tham gia vào cấu trúc của các hợp chất nucleotit, ADR, ARN, các hợp chất cao năng ATP, ADP… là những hợp chất quan trọng trong quá trình phân chia tế bào tạo mới các bộ phận của cơ thể. Khi thiếu lân quá trình phân hóa hoa của cây ngô bị ảnh hưởng xấu làm cho bắp bé, bông cờ nhỏ, ít hoa. Ngoài ra còn làm cho bộ rễ kém phát triển, 2 mép lá hình thành 2 dải tím đỏ, cây non chuyển sang mầu huyết dụ khá rõ.
Lân làm tăng sức sống và phẩm chất của hạt, có đến 75% lượng lân cây đồng hóa được tập trung ở trong hạt. Lân giúp cây tăng sức chống chịu với ngoại cảnh bất thuận nhất là hạn và nhiệt độ thấp.
Đặc điểm dinh dưỡng của lân đối với cây ngô: Cây ngô cần lân khoảng 50 ngày đầu sau khi trồng với lượng khoảng 30% tổng lượng trong suốt chu kỳ sinh trưởng, thời kỳ này lân có vai trò quan trọng đối với việc phân hóa các cơ quan, bộ phận, kích thích sự phát triển của bộ rễ, quá trình phân hóa hoa đực hoa cái, tạo tiền đề cho năng suất sau này. Thời kỳ 50 ngày tiếp theo đặc biệt là thời kỳ tạo hạt cây ngô hút lượng lân lớn khoảng 65% để tích lũy chất tạo hạt. Thời kỳ chín yêu cầu lân giảm dần cây ngô chỉ hút khoảng 5% tổng lượng lân của cả chu kỳ sinh trưởng. Lượng lân bổ sung cho cây ngô khoảng 60 – 90 kg P2O5/ha.
2.4. Phân vi lượng (dinh dưỡng vi lượng) đối với cây ngô
Các nguyên tố vi lượng là những yếu tố phân mà cây ngô cần với một số lượng rất nhỏ, nhưng đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết các hoạt động trao đổi chất bởi nó tham gia vào thành phần của các men, vitamin. Nếu thiếu các yếu tố vi lượng hoạt động trao đổi chất của cây bị rối loạn. Các yếu tố vi lượng còn đóng vai trò quan trọng trong việc làm tăng sức chống chịu cho cây như: chống rét, chống sâu bệnh…
Khi thiếu vi lượng cây ngô có những biểu hiện như sau:
– Cây ngô thiếu S: cũng giống như triệu chứng thiếu N, cây mảnh khảnh, không mềm mại. Lá có màu vàng nhạt, triệu chứng bệnh thường xuất hiện ở các lá non, ở phần ngọn trước, lá non mọc ra có mầu lục nhạt đồng đều hoặc bạc phếch, khi phun đạm hay bón đạm cũng không thấy xanh lại thì đúng là bệnh thiếu S.
– Cây ngô thiếu canxi: canxi thường không di chuyển trong cây nên trong mạch libe rất ít ion canxi. Ở cây ngô nếu thiếu canxi trầm trọng thì lá non không mọc ra được, đầu lá có thể bị một lớp gelatin bao phủ, lá có khuynh hướng như dính vào nhau (ngọn lá trên dính vào lá phía dưới kế tiếp ngay với nó).
– Cây ngô thiếu magie: khác với canxi magie rất linh động trong cây, nên triệu chứng thiếu magie xuất hiện đầu tiên ở các lá phía dưới. Magie có trong trong thành phần của diệp lục nên thiếu magie thì lá mất màu xanh lục. Cây thiếu magie thịt lá thường vàng ra chỉ còn gân lá có mầu xanh, nên trên các lá đơn tử diệp có bộ gân song song như lá ngô nên xuất hiện các dải mầu vàng xen giữa các dải gân song song.
– Cây ngô thiếu kẽm: kẽm không linh động trong cây nên triệu chứng thiếu kẽm thường xuất hiện ở các lá non và đỉnh sinh trưởng. Cây ngô thiếu kẽm lá non vàng đi rồi trắng ra nên có tên gọi là trắng búp.
– Cây ngô thiếu đồng: triệu chứng thiếu đồng cũng thường xuất hiện ở ngọn cây, các lá mới vàng đi sau đó ngọn và mép lá bị hoại tử giống như triệu chứng thiếu kali.
– Cây ngô thiếu sắt: sắt cũng là nguyên tố linh động trong cây nên khi thiếu sắt triệu chứng cũng bắt đầu xuất hiện ở các lá non. Do 90% sắt nằm trong lục lạp (chrotoplast) và microchondia nên khi thiếu sắt thì lá mất mầu xanh. Cây ngô thiếu sắt lá có mầu xanh nhạt, phần thịt lá nằm giữa các gân vàng đi (nên dễ nhầm với triệu chứng thiếu magie). Nếu thiếu nghiêm trọng thì toàn bộ lá non chuyển sang mầu trắng.
– Cây ngô thiếu Mn: mangan cũng là nguyên tố linh động trong cây nên khi thiếu mangan triệu chứng cũng bắt đầu xuất hiện ở các lá non trước. ở gốc các lá non xuất hiện các vùng xám sau đó chuyển dần từ vàng nhạt đến vàng da cam. Phần thịt lá giữa các gân lá xuất hiện các đốm vàng sau đó có thể bị hoại tử.
– Cây ngô thiếu Bo: Bo là một nguyên tố vi lượng kém linh động nhất trong cây, không dễ dàng được vận chuyển từ các bộ phận già đến các bộ phận non. Triệu chứng thiếu Bo cũng bắt đầu xuất hiện từ đỉnh sinh trưởng và mô phân sinh đỉnh thân, đỉnh rễ, đỉnh lá, chồi hoa. Nếu thiếu Bo hạt phấn nảy mầm kém, vòi hạt phấn sinh trưởng và phát triển cũng kém nên ảnh hưởng tới việc thụ phấn, thụ tinh.
– Cây ngô thiếu Mo: khi thiếu Mo ảnh hưởng đến việc chuyển hóa N trong cây, nên triệu chứng thiếu Mo cũng biểu hiện giống như triệu chứng thiếu N, lá vàng ra.
– Cây ngô thiếu Clo: Clo có tác dụng làm giảm hoặc hạn chế bệnh thối thân trên cây ngô. Khi thiếu clo đầu phiến lá bị héo sau đó mất mầu xanh chuyển sang mầu đồng thau rồi hoại tử. Sinh trưởng của rễ bị hạn chế, rễ bên cuộn lại.
Ngoài ra các yếu tố vi lượng như Cu, Mn, Zn… có tác dụng làm tăng năng suất ngô từ 5 – 25% và còn làm tăng phẩm chất hạt do làm tăng hàm lượng protein trong hạt. Việc bón phân vi lượng cho ngô có thể căn cứ vào cây trồng trước, loại đất hoặc có thể bón phối hợp với các loại phân đa lượng qua đất. Trong những trường hợp thiếu vi lượng có thể sử dụng các chế phẩm phun qua lá vì phần lớn thiếu vi lượng không phải do đất không có mà do điều kiện sinh thái cây không hút được hoặc do mất cân đối dinh dưỡng vi lượng. Hiện tượng đó phải được giải quyết kịp thời bằng cách phun lên lá sẽ cho hiệu quả nhanh nhất. Và tiết kiệm được nguyên liệu sử dụng. Nồng độ phân phun lên lá dao động từ 0,001 – 0,005%.
Ngoài ra có thể bổ sung phân vi lượng cho ngô thông qua hình thức tẩm qua hạt giống trước khi gieo. Nếu đất trồng thường thiếu loại phân nào thì tẩm hạt giống với loại phân đó, phương pháp này cũng cho hiệu quả tốt.
3. Các phương pháp bón phân cho ngô (bắp)
3.1 Bón lót cho ngô, loại phân bón chuyên bón lót cho cây ngô
Mục đích của việc bón lót phân cho ngô là cung cấp dinh dưỡng cây trồng cho cây trong suốt thời kỳ sinh trưởng phát triển. Lượng phân bón lót cho ngô tương đối nhiều chiếm 70% tổng số phân bón cho ngô. Phân bón lót cho ngô chủ yếu là phân hữu cơ, phân chuồng, phân xanh và có thể kết hợp với phân vô cơ như: phân lân, kali, đạm. Ở những nơi thiếu phân chuồng có thể dùng bèo hoa dâu bón lót cho ngô cũng rất tốt, bón lót bèo hoa dâu cho ngô không những tăng năng suất ngô mà còn có tác dụng rõ trong việc cải tạo đất.
Có nhiều cách bón lót cho ngô: bón vãi, bón hốc hay bón theo rạch. Trong điều kiện ít phân nên bón theo hốc, theo các rạch. Khi dùng phân hữu cơ bón lót cho ngô phải dùng phân thật hoai mục, khi bón lót cần chú ý không để hạt giống tiếp xúc trực tiếp với phân vì phân hóa học tiếp xúc với hạt sẽ ảnh hưởng đến quá trình nảy mầm của hạt.
Trong điều kiện ở nước ta tổng lượng phân bón cho ngô trên 1 ha là: 8 – 10 tấn phân chuồng, 120 – 150kgN, 60 – 90 Kg P2O5 và 30 – 60 kg K2O. Trong đó, phân chuồng và phân lân dùng bón lót toàn bộ, bón lót 1/3 lượng phân đạm.
Có thể bạn quan tâm:
- Có bao nhiêu biện pháp phòng trừ sâu bệnh hại cho cây trồng?
- Đá vôi là gì và ứng dụng của đá vôi trong đời sống
3.2 Bón thúc cho ngô, loại phân bón chuyên bón thúc cho cây ngô
Bón thúc cho ngô có tác dụng tăng năng suất rất rõ rệt, nhất là những nơi lượng phân bón lót ít. Nói chung khi bón thúc cho ngô phải dùng phân có hiệu quả nhanh như phân chuồng thật hoai mục, tốt nhất là dùng phân hóa học phân đạm và phân kali.
Bón thúc cho ngô có hai thời kỳ chính sau:
– Bón thúc lần 1 khi cây ngô có 3 – 5 lá: giai đoạn này chất dinh dưỡng trong hạt đã hết, cây ngô phải hút chất dinh dưỡng từ đất, đây cũng là thời kỳ cây ngô đang phân đốt. Do đó bón thúc lúc này cung cấp chất dinh dưỡng kịp thời cho ngô xúc tiến quá trình phân hóa đốt và số lá. Thường những nơi đất xấu ít phân bón lót nếu không bón thúc thời kỳ này thì cây thấp bé các thời kỳ sau có bón bổ sung cây vẫn không lớn được. Bón thúc lần 1 kết hợp xới xáo, làm cỏ. Lượng bón thúc lần 1: 1/3 lượng phân đạm, 1/2 lượng phân kali.
Bón thúc giai đoạn 3 – 5 lá nên bón gần gốc, cách gốc 4 – 5 cm và bón nông. Các lần bón thúc sau nên bón xa gốc và sâu hơn, thường bón cách gốc 12cm và sâu 5 – 7cm. Khi bón thúc phải làm cỏ xới xáo, bón thúc xong phải vun gốc ngay mới tăng hiệu lực phân
– Bón thúc lần 2 khi cây ngô có 9 – 10 lá: lúc này cây ngô bước vào giai đoạn phân hóa các cơ quan sinh sản cái. Bón thúc cho ngô lúc này có tác dụng làm cho quá trình hình thành bắp được thuận lợi. Lần bón thúc này kết hợp làm cỏ, xới xáo, vun cao gốc và tưới nước (nếu không có mưa). Lượng bón thúc lần 2: 1/3 lượng phân đạm, 1/2 lượng phân kali.
Bón 1/3 đạm + 1/3 kali bón lúc ngô có 7 – 9 lá thật. Bón thời kỳ này có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của bộ rễ đốt, giúp cho cây hút được nhiều chất dinh dưỡng chống đổ tốt. Xúc tiến quá trình tạo ra các bộ phận sinh trưởng như: thân, lá, rễ. Xúc tiến quá trình phân hóa cac cơ quan sinh sản. Xúc tiến phân hóa đực (bước 4-6). Hoa cái (bước 1-4) là các bước làm tăng số gié, số hoa đực và hàng hoa cái sau này.
Cách bón phân thúc cho cây ngô: Trộn đều phân bón vào rãnh, rạch sâu 5 -7 cm hai bên hàng ngô cách gốc 10 – 15 cm. Sau đó lấp đất vun vào gốc dùng 1/3 đạm + 1/3 kali. Trong điều kiện cho phép về lao động có thể bón như sau: bón lót toàn bộ phân chuồng, phân lân; bón thúc vào 3 giai đoạn: lần 1 lúc cây ngô có 3 – 4 lá, bón 1/3 lượng đậm + 1/2 kali; lần 2 lúc cây ngô có 9 – 10 lá, bón 1/3 lượng đạm + 1/2 kali; lần 3 lúc cây ngô trỗ cờ, bón nốt 1/3 lượng đạm.
Bón thúc phân cho ngô
Lúc cây ngô 3 – 4 lá có thể pha phân với nước để tưới cho cây. Trường hợp đất ẩm có thể bón trực tiếp vào đất rạch 2 bên rãnh cách gốc 5 – 7 cm, rải đều phân, dùng đất bột lấp lại. Kết hợp vun nhẹ quanh gốc ngô.
Bón lúc ngô xoắn nõn (10-15 ngày trước trỗ): lần bón này có tác dụng tốt cho quá trình phân bón hóa bắp, trổ cờ, tung phấn, thụ tinh dùng toàn bộ lượng phân còn lại bón trực tiếp vào đất như đợt 2 và kéo đất vun cao lần cuối.
Chú ý khi bón phân cho ngô:
Vào thời kỳ cây con ở một số thời vụ ngô thường bị ngập nước, hoặc chết rét. Rễ phát triển kém (chân chì) làm cây còi cọc. Có thể kết hợp pha P + N (lượng lân là chính) tưới cho cây để kích thích sự phát triển của bộ rễ.
Nói tóm lại bón thúc cho ngô phải dựa vào giống, chất đất, khí hậu, lượng phân bón lót cũng như kỹ thuật trồng trọt để định số lần bón, thời kỳ bón và lượng phân bón cho phù hợp. Về loại phân bón thúc nguyên tắc chung là dùng loại phân dẽ tiêu, có hiệu quả nhanh như phân đạm, phân hữu cơ thật hoai mục, tốt nhất là dùng phân nước hoặc bón phân kết hợp với tưới nước. Trong điều kiện Việt Nam loại phân giàu đạm như phân bắc, hoai mục, nước tiểu bón cho ngô rất tốt.
Tổng hợp: nongnghiep365.net